Thứ Năm, Ngày 01/5/2025 -

Ngày đăng:

25/06/2024 

Vào lúc 13h30 chiều ngày 19/6/2024, Tòa án nhân dân tỉnh mở phiên tòa xét xử 04 bị cáo gồm: Hà Ngọc Bình (sinh ngày 09/9/1977, trú tại Thôn 06, thị trấn Plei Kần, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum); bị cáo Hà Tuấn Anh (sinh ngày 03/8/1989, hộ khẩu thường trú tại Thôn Măng Tôn, xã Pờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum); bị cáo Nguyễn Hoài Đức (sinh ngày 01/6/1993 , hộ khẩu thường trú tại Tổ 4, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum); bị cáo A Khâm (sinh ngày 09/02/2004, hộ khẩu thường trú tại Thôn 12, xã Đăk Ruồng, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum) về tội “Hủy hoại rừng”.

Quang cảnh phiên tòa

Vào khoảng tháng 02 năm 2022, bị cáo Hà Ngọc Bình đi kiểm tra đường nước của Công ty TNHH Nông nghiệp sạch Tây Nguyên tại tiểu khu 510 thuộc xã Đăk Tơ Lung, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum thì phát hiện khu vực rừng tại đây có rẫy trồng cây mì của người dân nên nảy sinh ý đi cắt hạ cây rừng tại khu vực này để lấy đất làm rẫy.

Đến ngày 22/02/2023, Hạt Kiểm lâm huyện Kon Rẫy phối hợp với UBND xã Đăk Tơ Lung tiến hành tuần tra, kiểm tra tại Tiểu khu 510 thuộc địa phận xã Đăk Tơ Lung, huyện Kon Rẫy. Qua kiểm tra phát hiện khu vực rừng thuộc lô 20, khoảnh 2; lô 4, 9, 14 khoảnh 5, Tiểu khu 510 bị chặt phá với diện tích là 19.884m2.

04 Bị cáo tại Phiên tòa (từ phải sang trái)

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường hồi 8 giờ 20 phút ngày 24/02/2023 tại Tiểu khu 510 địa giới hành chính xã Đăk Tơ Lung, huyện Kon Rẫy thể hiện: Hiện trường vụ án là khu vực rừng tại khoảnh 2, khoảnh 5, Tiểu khu 510 thuộc lâm phần do các hộ gia đình A Vâng, A Bê, A Ni và Cộng đồng thôn 4, xã Đăk Tơ Lung, huyện Kon Rẫy quản lý, bảo vệ. Tổng diện tích rừng bị thiệt hại đo được bằng máy định vị cầm tay nhãn hiệu GPS GARMIN 78s là 19.884 m2  (Gồm: Diện tích vi phạm do hộ A Ni quản lý là 13.619,4 m2; diện tích vi phạm do hộ A Vâng quản lý là 79 m2; Diện tích vi phạm do hộ A Bê quản lý là 1.623 m2; Diện tích vi phạm do cộng đồng thôn 4 quản lý là 4.562,54 m2). Trong đó: Phần diện tích rừng 9.441 m2 thuộc lô 20, khoảnh 2 và lô 4, lô 9, lô 14 khoảnh 5 thì toàn bộ gỗ tại hiện trường đã bị đốt cháy hoàn toàn và than hóa; 10.443 m2 thuộc lô 9, lô 14 khoảnh 5 thì toàn bộ gỗ tại hiện trường đã bị đốt cháy nham nhở. Dấu vết để lại tại các gốc cây, thân cây cho thấy các cây gỗ có đường kính từ 10 cm trở lên thì bị cắt hạ bằng máy cưa xăng, còn các cây gỗ nhỏ hơn, cây bụi và le thì bị chặt bằng công cụ là rựa, với dấu vết cắt, chặt đã cũ.

Tại biên bản thực nghiệm điều tra hồi 8 giờ 00 phút ngày 11/03/2023 tại Tiểu khu 510 rừng thuộc xã Đăk Tơ Lung, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum thể hiện: Hà Tuấn Anh, A Khâm, A Thoát và Nguyễn Tấn Thương đã xác định vị trí, diện tích rừng đã hủy hoại, cụ thể:

+ Bị cáo Hà Tuấn Anh và bị cáo A Khâm đã hủy hoại 5.716,710 m2 rừng. Trong đó: 1.467,6 mrừng thuộc lô 9, khoảnh 5, Tiểu khu 510 do hộ gia đình ông A Ni quản lý, bảo vệ và 4.249,11 m2 rừng thuộc lô 14, khoảnh 5, Tiểu khu 510 do hộ cộng đồng thôn 4, xã Đăk Tơ Lung quản lý, bảo vệ.

+ Bị cáo Hà Tuấn Anh và A Thoát đã hủy hoại 2.512,778 m2 rừng. Trong đó: 2.282,778 m2 rừng thuộc lô 9, khoảnh 5, Tiểu khu 510 do hộ gia đình ông A Ni quản lý, bảo vệ và 230 m2 rừng thuộc lô 14, khoảnh 5, Tiểu khu 510 do hộ cộng đồng thôn 4, xã Đăk Tơ Lung quản lý, bảo vệ.

+ Bị cáo Hà Tuấn Anh và Nguyễn Tấn Thương đã hủy hoại 2.213.692 m2 rừng thuộc lô 9, khoảnh 5, Tiểu khu 510 do hộ gia đình ông A Ni quản lý, bảo vệ.

Tại Bản kết luận giám định tư pháp ngày 05/4/2023 của Chi cục kiểm lâm tỉnh Kon Tum kết luận: Khu vực rừng bị hủy hoại tại khoảnh 2, khoảnh 5, Tiểu khu 510 là rừng tự nhiên, chức năng rừng sản xuất; Số cây gỗ bị hủy hoại đều thuộc chủng loại SP thuộc nhóm VIII và bị thiệt hại 100%. Tổng khối lượng gỗ bị thiệt hại trên diện tích rừng 19.884m2 bị hủy hoại tại khoảnh 2, khoảnh 5, Tiểu khu 510 là 29,410 m3, sản lượng gỗ thương phẩm là 0,000 m3, số lượng cây tái sinh (đường kính D1,3<10cm, chiều cao từ 1,6 đến 5m) bị thiệt hại là 3.818 cây.

Trong đó: Trên lâm phần do ông A Vâng quản lý (tại vị trí lô 20, khoảnh 2, tiểu khu 510); khối lượng gỗ thiệt hại 0,117 m3, số lượng cây tái sinh bị thiệt hại là 15 cây; Trên lâm phần do ông A Bê quản lý (tại vị trí lô 4, khoảnh 5, tiểu khu 510); khối lượng gỗ thiệt hại 2,400 m3, số lượng cây tái sinh bị thiệt hại là 312 cây; Trên lâm phần do ông A Ni quản lý (tại vị trí lô 9, khoảnh 5, tiểu khu 510); khối lượng gỗ thiệt hại 20,144 m3, số lượng cây tái sinh bị thiệt hại là 2.615 cây; Trên lâm phần do công đồng thôn 4, xã Đăk Tơ Lung quản lý (tại vị trí lô 14, khoảnh 5, tiểu khu 510); khối lượng gỗ thiệt hại 6,749 m3, số lượng cây tái sinh bị thiệt hại là 876 cây.

Khối lượng gỗ bị thiệt hại trên diện tích rừng do bị cáo Hà Tuấn Anh, bị cáo A Khâm, anh A Thoát và anh Nguyễn Tấn Thương hủy hoại là 15,446 m3, sản lượng gỗ thương phẩm là 0,000 m3, số lượng cây tái sinh bị thiệt hại là 2.004 cây. Trong đó: Bị cáo Hà Tuấn Anh cùng với Nguyễn Tấn Thương hủy hoại (trên diện tích 2.213,692 m2) là: khối lượng gỗ thiệt hại là 3,274 m3, số lượng cây tái sinh bị thiệt hại là 425 cây; bị cáo Hà Tuấn Anh cùng với A Thoát hủy hoại (trên diện tích 2.512,778 m2) là: khối lượng gỗ thiệt hại là 3,717 m3, số lượng cây tái sinh bị thiệt hại là 482 cây; bị cáo Hà Tuấn Anh cùng với bị cáo A Khâm hủy hoại (trên diện tích 5.716,71 m2) là: khối lượng gỗ thiệt hại là 8,455 m3, số lượng cây tái sinh bị thiệt hại là 1097 cây.

Tại kết luận định giá tài sản số: 04/KLĐGTS ngày 01/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kon Rẫy kết luận: Tổng giá trị 29,410 m3 gỗ bị thiệt hại tại khu vực rừng bị hủy hoại tại khoảnh 2, khoảnh 5, tiểu khu 510 là 25.782.777 đồng; tổng giá trị thiệt hại phải bồi thường đối với 19.884 m2 (1,9884 ha) diện tích rừng tự nhiên, chức năng rừng sản xuất bị hủy hoại tại khoảnh 2, khoảnh 5, tiểu khu 510 là 100.523.763 đồng. Cụ thể: Giá trị thiệt hại phải bồi thường đối với 79m2 diện tích rừng tự nhiên bị hủy hoại (mức độ thiệt hại 100%) tại lô 20, khoảnh 2, tiểu khu 510 do hộ gia đình ông A Vâng quản lý, bảo vệ là 417.495 đồng; Giá trị phải bồi thường đối với 1.623m2  diện tích rừngtự nhiên bị hủy hoại (mức độ thiệt hại 100%) tại lô 4, khoảnh 5, tiểu khu 510 do hộ gia đình ông A Bê quản lý, bảo vệ là 8.566.113 đồng; Giá trị phải bồi thường đối với 13.619,4 m2 diện tích rừngtự nhiên bị hủy hoại (mức độ thiệt hại 100%) tại lô 9, khoảnh 5, tiểu khu 510 do hộ gia đình ông A Ni quản lý, bảo vệ là 71.617.845 đồng; Giá trị phải bồi thường đối với 4.562,54m2 diện tích rừng tự nhiên bị hủy hoại (mức độ thiệt hại 100%) tại lô 14, khoảnh 5, tiểu thu 510 do Cộng đồng thôn 04, xã Đăk Tơ Lung quản lý, bảo vệ là 19.922.310 đồng.

Tổng giá trị 15,446 m3 gỗ bị thiệt hại tại khu vực rừng do bị cáo Hà Tuấn Anh, anh A Thoát, bị cáo A Khâm và anh Nguyễn Tấn Thương hủy hoại tại lô 9, lô 14, khoảnh 5, tiểu khu 510 là 13.540.997 đồng; Tổng giá trị thiệt hại phải bồi thường đối với 10.443,18  m2 (1,044318 ha) rừng tự nhiên, chức năng rừng sản xuất do Hà Tuấn Anh , A Thoát, A Khâm và Nguyễn Tấn Thương hủy hoại tại lô 9, lô 14, khoảnh 5, tiểu khu 510 là 50.917.944 đồng. Cụ thể: Giá trị phải bồi thường đối với 5.716,710 m2  diện tích rừng tự nhiên, chức năng rừng sản xuất do Hà Tuấn Anh , A Khâm hủy hoại (mức độ thiệt hại 100%) tại khoảnh 5, tiểu khu 51026.268.363 đồng; Giá trị phải bồi thường đối với 2.512,778 m2  diện tích rừng tự nhiên, chức năng rừng sản xuất do Hà Tuấn Anh, A Thoát hủy hoại (mức độ thiệt hại 100%) tại khoảnh 5, tiểu khu 51013.009.365 đồng và giá trị phải bồi thường đối với 2.213,692 m2  diện tích rừng tự nhiên, chức năng rừng sản xuất do Hà Tuấn Anh , Nguyễn Tấn Thương hủy hoại (mức độ thiệt hại 100%)  tại khoảnh 5, tiểu khu 51011.640.216 đồng.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Hà Ngọc Bình 39 (Ba mươi chín ) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 20/9/2023 cho đến ngày 15/12/2023.

- Xử phạt bị cáo Hà Tuấn Anh 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 18/4/2023 cho đến ngày 28/8/2023.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

 Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài Đức 36 (Ba mươi sáu ) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (11/3/2024).

Giao bị cáo Nguyễn Hoài Đức cho Ủy ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

 Xử phạt bị cáo A Khâm 12 (Mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (11/3/2024).

Giao bị cáo cáo A Khâm cho Ủy ban nhân dân xã Đăk Ruồng, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự:  Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự và các Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587, Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc các bị cáo Hà Tuấn Anh, Hà Ngọc Bình, Nguyễn Hoài Đức và A Khâm, cùng với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh A Thoát và anh Nguyễn Tấn Thương liên đới bồi thường thiệt hại số tiền 50.917.944 đồng (Năm mươi triệu chín trăm mười bảy ngàn chín trăn bốn bốn đồng) cho UBND huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum để sung quỹ Nhà nước, nhưng được trừ số tiền 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) các bị cáo đã bồi thường, theo biên lai thu tiền số 0000552 ngày 23/11/2023, biên lai thu tiền số 0000553 ngày 19/12/2023, biên lai thu tiền số 0000556  ngày 19/02/2024, biên lai thu tiền số 0000557 ngày 19/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Rẫy.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Tuấn Kiệt